Dân tộc Mông còn có tên gọi khác gọi khác là Mẹo, Mèo,
Miếu Hạ, Mán Trắng.
*Nhóm địa phương: Mông Trắng, Mông Hoa, Mông Ðỏ, Mông Ðen,
Mông Xanh, Na Miẻo.
*Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngôn ngữ hệ Mông – Dao,
*Hoạt động sản xuất: Nguồn sống chính là làm nương định canh
hoặc nương du canh trồng ngô, lúa, lúa mạch.Người Mông có truyền thống trồng
xen canh trên nương cùng với cây trồng chính là các cây ý dĩ, khoai, rau, lạc,
vừng, đậu... Chiếc cày của người Hmông rất nổi tiếng về độ bền cũng như tính hiệu
quả. Trồng lanh, thuốc phiện (trước đây), các cây ăn quả như táo, lê, đào, mận,
dệt vải lanh là những hoạt động sản xuất đặc sắc của người Hmông.
Dân tộc Mông
Vẽ bằng sáp ong, nhuộm chàm là một cách tạo hoa văn đặc
trưng của người Mông hoặc Dao. Người phụ nữ dùng bút chấm sáp ong nóng chảy để
vẽ vào những hoa văn trên tấm vải lanh trắng. Vẽ xong, tấm vải đó được nhuộm
chàm nhiều lần cho đến khi được màu đen vừa ý. Sau đó người ta đem vải nhúng
vào nước nóng cho sáp ong tan ra, để lại những hoa văn màu trắng trên nền chàm
xanh.
Người Mông chăn nuôi chủ yếu trâu, bò, lợn, gà, ngựa. Ngựa
thồ là phương tiện vận chuyển rất có hiệu quả trên vùng cao núi đá. Con ngựa rất
gần gũi và thân thiết với từng gia đình Mông.
Họ phát triển đa dạng các nghề thủ công như đan lát, rèn,
làm yên cương ngựa, đồ gỗ, nhất là các đồ đựng, làm giấy bản, đồ trang sức bằng
bạc phục vụ nhu cầu và thị hiếu của người dân. Các thợ thủ công Mông phần lớn
là thợ bán chuyên nghiệp làm ra những sản phẩm nổi tiếng như lưỡi cày, nòng
súng, các đồ đựng bằng gỗ ghép.
Chợ ở vùng Mông thoả mãn vừa nhu cầu trao đổi hàng hoá vừa
nhu cầu giao lưu tình cảm, sinh hoạt.
Ăn: Người Mông thường ăn ngày hai bữa, ngày mùa ăn ba bữa. Bữa
ăn với các thực phẩm truyền thống có mèn mén (bột ngô đồ) hay cơm, rau xào mỡ
và canh. Bột ngô được xúc ăn bằng thìa gỗ. Phụ nữ khéo léo làm các loại bánh bằng
bột ngô, gạo vào những ngày tết, ngày lễ. Người Mông quen uống rượu ngô, rượu gạo,
hút thuốc bằng điếu cày. Ðưa mời khách chiếc điếu do tự tay mình nạp thuốc là
biểu hiện tình cảm quý trọng. Trước kia, tục hút thuốc phiện tương đối phổ biến
với họ.
Mặc: Trang phục của người Mông rất sặc sỡ, đa dạng giữa các
nhóm.
Dân tộc Mông
Phụ nữ Mông Trắng trồng lanh, dệt vải lanh, váy màu trắng,
áo xẻ ngực, thêu hoa văn ở cánh tay, yếm sau. Cạo tóc, để chỏm, đội khăn rộng
vành.
Phụ nữ Mông Hoa mặc váy màu chàm có thêu hoặc in hoa văn bằng
sáp ong, áo xẻ nách, trên vai và ngực đắp vải màu và thêu. Ðể tóc dài, vấn tóc
cùng tóc giả.
Phụ nữ Mông Xanh mặc váy ống. Phụ nữ Mông Xanh đã có chồng
cuốn tóc lên đỉnh đầu, cài bằng lược móng ngựa, đội khăn ra ngoài tạo thành
hình như hai cái sừng.
Chợ phiên- nơi giao lưu trao đổi hàng hoá, gặp gỡ của anh
em, bạn bè trai gái, là một sinh hoạt đặc trưng của người Mông ở vùng cao biên
giới. Người ta thồ trên lưng ngựa đến chợ đủ mọi thứ hàng hoá như: ngô, rau, củi...
Ðàn ngựa thồ được quần tụ trên bãi để ngựa ở chợ Bắc Hà (Lào Cai), Ðồng Văn (Hà
Giang) là nét văn hoá đẹp ở vùng cao.
Thắng cố (chảo canh) là món ăn được ưa thích của người
Hmông. Ðây là món canh gồm các loại thịt, xương, lòng, gan, tim, phổi bò (dê) cắt
thành từng miếng nhỏ được nấu chung trong chảo to. Người Hmông thường nấu Thắng
cố khi nhà có bữa đám hay trong các chợ phiên.
Ở: Người Mông quần tụ trong từng bản vài chục nóc nhà.
Nhà trệt, ba gian hai chái, có từ hai đến ba cửa. Gian giữa đặt bàn thờ. Nhà
giàu thì tường trình, cột gỗ kê trên đá tảng hình đèn lồng hay quả bí, mái lợp
ngói, sàn gác lát ván. Phổ biến nhà bưng ván hay vách nứa, mái tranh. Lương thực
được cất trữ trên sàn gác. Một số nơi có nhà kho chứa lương thực ở ngay cạnh
nhà.
Ở vùng cao núi đá, mỗi nhà có một khuôn viên riêng cách nhau
bằng bức tường xếp đá cao khoảng gần 2 mét.
Phương tiện vận chuyển: Người Mông quen dùng ngựa thồ, gùi
có hai quai đeo vai.
Quan hệ xã hội: Bản thường có nhiều họ, trong đó một hoặc
hai họ giữ vị trí chủ đạo, có ảnh hưởng chính tới các quan hệ trong bản. Người
đứng đầu bản điều chỉnh các quan hệ trong bản, trước kia, cả bằng hình thức phạt
vạ lẫn dư luận xã hội. Dân mỗi bản tự nguyện cam kết và tuân thủ quy ước chung
của bản về sản xuất, chăn nuôi, bảo vệ rừng và việc giúp đỡ lẫn nhau. Quan hệ
trong bản càng gắn bó chặt chẽ hơn thông qua việc thờ cúng chung thổ thần của bản.
Mỗi gia đình Mông đều có bàn thờ ở gian giữa nhà. Biểu trưng
cho nơi thờ là vài tờ giấy bản có tráng kim ở giữa đóng trên vách được thay vào
dịp Tết hàng năm. Mỗi khi cúng người ta lấy lông gà chấm vào tiết rồi dán lên tờ
giấy bản đó.
Người Mông rất coi trọng dòng họ bao gồm những người có
chung tổ tiên. Các đặc trưng riêng với mỗi họ thể hiện ở những nghi lễ cúng tổ
tiên, ma cửa, ma mụ... như số lượng và cách bày bát cúng, bài cúng, nơi cúng, ở
các nghi lễ ma chay như cách quàn người chết trong nhà, cách để xác ngoài trời
trước khi chôn, cách bố trí mộ... Người cùng họ dù không biết nhau, dù cách xa
bao đời nhưng qua cách trao đổi các đặc trưng trên có thể nhận ra họ của mình.
Phong tục cấm ngặt những người cùng họ lấy nhau. Tình cảm gắn bó giữa những người
trong họ sâu sắc. Trưởng họ là người có uy tín, được dòng họ tôn trọng, tin
nghe.
Gia đình nhỏ, phụ hệ. Cô dâu đã qua lễ nhập môn, bước qua cửa
nhà trai, coi như đã thuộc vào dòng họ của chồng. Vợ chồng rất gắn bó, luôn ở
bên nhau khi đi chợ, đi nương, thăm hỏi họ hàng. Phổ biến tục cướp vợ.
Thờ cúng: Trong nhà có nhiều nơi linh thiêng dành riêng cho
việc thờ cúng như nơi thờ tổ tiên, ma nhà, ma cửa, ma bếp. Những người biết nghề
thuốc, biết làm thầy còn lập bàn thờ cúng những vị tổ sư nghề của mình. Nhiều lễ
cúng kiêng cấm người lạ vào nhà, vào bản. Sau khi cúng ma cầu xin ai thường đeo
bùa để lấy khước.
Học: Chữ Mông tuy được soạn thảo theo bộ vần chữ quốc
ngữ từ những năm sáu mươi nhưng cho đến nay vẫn chưa thực sự phổ biến.
Lễ tết: Trong khi người Việt đang hối hả kết thúc tháng
cuối cùng trong năm thì người Mông đã bước vào Tết năm mới truyền thống từ đầu
tháng 12 âm lịch, sớm hơn tết Nguyên đán một tháng theo cách tính lịch cổ truyền
của người Mông, phù hợp với nông lịch truyền thống. Ngày Tết, dân làng thường
chơi còn, đu, thổi khèn, ca hát ở những bãi rộng quanh làng. Tết lớn thứ hai là
Tết 5 tháng năm (âm lịch). Ngoài hai tết chính, tuỳ từng nơi còn có các Tết vào
các ngày 3 tháng 3, 13 tháng 6, 7 tháng 7 (âm lịch). Ngày Tết, trai gái Mông
vui chơi ca hát, múa khèn, tung còn, đánh cầu lông gà, đánh quay. Chơi quay là
một trò chơi phổ biến ở hầu hết các dân tộc ở miền Bắc, nhưng mỗi dân tộc có
cách đánh quay riêng.
Văn nghệ: Thanh niên thích chơi khèn, vừa thổi vừa múa.
Khèn, trống còn được sử dụng trong đám ma, lúc viếng, trong các lễ cúng cơm.
Kèn lá, đàn môi là phương tiện để thanh niên trao đổi tâm tình.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét